TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC TUYÊN GIẤY NHẬN CỌC VÔ HIỆU

TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC TUYÊN GIẤY NHẬN CỌC VÔ HIỆU. Bản án 134/2021/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh  về “Tranh chấp hợp đồng dặt cọc”

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 134/2021/DS-PT

Ngày: 24- 6 -2021.

V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc

 

NHÂN DANH 

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH 

Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: 

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Lâm Văn Be.

Các Thẩm phán: Bà Dương Thúy Hằng;

 Ông Trần Quốc Vũ.

Thư ký phiên tòa: Ông Thái Công Hậu, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Tây  Ninh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa:  Ông Nguyễn Minh Tâm – Kiểm sát viên.

Ngày 24 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét  xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 63/2021/TLPT-DS ngày 01 tháng 4 năm 2021, về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2021/DS-ST ngày 22 tháng 02 năm  2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 118/2021/QĐ-PT  ngày 17 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

– Nguyên đơn: Chị Lê Thị Kim L, sinh năm 1994; địa chỉ: Số 4, hẻm 377 đường Đ, khu phố N, phường NT, thành phố T, tỉnh Tây Ninh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Anh Trần Quốc T, sinh năm  1987; địa chỉ: Số 171, đường C, khu phố H, phường N, thành phố T, tỉnh Tây  Ninh là đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 19-10-2020); có mặt.

– Bị đơn: Ông Nguyễn Hồng H, sinh năm 1963; địa chỉ: Số 6, đường số 6 Đ, khu phố N, phường NT, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 

+ Bà Trần Thị Gái E, sinh năm 1964; cư trú tại: Số 6, đường số 6, Đ, khu  phố N, phường NT, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông H, bà Gái E: Luật sư  Nguyễn Văn T – Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên B thuộc

Đoàn Luật sư tỉnh Tây Ninh; có mặt.

+ Ông Lê Hoàng M, sinh năm 1959; cư trú tại: Số 4, tổ 2, hẻm 37, đường  Đ, khu phố N, phường NT, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

Người kháng cáo: Bị đơn Ông Nguyễn Hồng H và người có quyền lợi  nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Gái E.

NỘI DUNG VỤ ÁN: 

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và  người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: 

Ngày 28-8-2020, chị L và ông H có thỏa thuận chuyển nhượng phần đất  diện tích 110 m2(ngang 5m x dài 22 m), thuộc thửa số 287, tờ bản đồ số 12 tọa  lạc tại khu phố N, phường NT, thành phố T, tỉnh Tây Ninh, giấy chứng nhận  quyền sử dụng đất do ông H đứng tên chủ sử dụng. Chị L đã đưa ông H

400.000.000 đồng tiền đặt cọc, giữ bản chính giấy đất và hẹn đến ngày 28-9- 2020, sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng tại Ủy ban nhân dân phường NT và trả hết  số tiền còn lại. Tuy nhiên, địa chính thông báo đất ông H bị quy hoạch không  còn đủ diện tích mà ông H cam kết trước đó nên chị L yêu cầu ông H trả tiền đặt  cọc nhưng ông H cố tình không trả.

Nay ông H vi phạm nội dung cam kết, có ý gian dối trong việc chuyển  nhượng nên chị L khởi kiện yêu cầu ông H trả 400.000.000 đồng tiền cọc và  phạt cọc 400.000.000 đồng. Trong trường hợp tiếp tục thực hiện hợp đồng thì  giá trị chuyển nhượng là 800.000.000 đồng

Bị đơn ông Nguyễn Hồng H trình bày:  

Ngày 27-8-2020, anh Nguyễn Văn H có giới thiệu ông Nguyễn Văn M đến nhận chuyển nhượng phần đất diện tích 5 m ngang x dài 22 m, diện tích 110  m2, thuộc thửa số 287, tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại khu phố N, phường NT, thành  phố T, tỉnh Tây Ninh, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông đứng tên chủ  sử dụng (đây là tài sản chung của ông và bà Gái E). Ông M cùng vợ và con gái  có đến xem đất hai lần và đồng ý mua với giá 2.500.000.000 đồng nhưng ông M

để con gái ông tên L đặt cọc tiền mua đất. Cùng ngày, ông có đưa bản photo  giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị L giữ để đi kiểm tra.

Ngày 28-8-2020, ông M sau khi đối chiếu bản photo và bản chính giấy đất  đúng 110 m2nên mới đồng ý mua với giá 2.500.000.000 đồng, chị L đã đưa cho  ông 400.000.000 đồng tiền cọc và hẹn đến ngày 28-9-2020 sẽ đưa đủ tiền còn lại  và hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Tuy nhiên, đến ngày 28-9-2020 thì không thực hiện được việc chuyển  nhượng do chị L nói diện tích thiếu, trong khi diện tích đất của ông vẫn đủ 110  m2. Vì vậy, không thực hiện được việc chuyển nhượng là lỗi của chị L nên ông  và bà Gái E không đồng ý trả lại tiền cọc.

Nếu tiếp tục chuyển nhượng thì ông chuyển nhượng cho chị L với giá  2.500.000.000 đồng. Trong trường hợp chị L không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất thì phải mất cọc và phải trả lại bản chính giấy  chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Gái E trình bày: Bà là  vợ ông H, thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của ông H, không bổ sung gì  thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Hoàng M trình bày: Số  tiền đặt cọc là tài sản riêng của chị L. Ông thống nhất với yêu cầu khởi kiện của  chị L.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2021/DS-ST ngày 22 tháng 02 năm  2021, của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tây Ninh đã quyết định:

Căn cứ Điều 328 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 49; Điều  167 Luật Đất đai năm 2013; Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14  ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,  giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

  1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Kim L với ông  Nguyễn Hồng H.

1.1. Tuyên bố “Giấy nhận cọc” ngày 28-8-2020 vô hiệu. Buộc ông  Nguyễn Hồng H có nghĩa vụ trả cho chị Lê Thị Kim L số tiền 400.000.000 ( bốn  trăm triệu) đồng.

1.2. Buộc ông Lê Hoàng M có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Hồng H 01  (một) bản chính Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số I871185, thửa đất số  287, tờ bản đồ 12, đất tọa lạc tại khu phố N, phường NT, thành phố T, tỉnh Tây  Ninh; do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 29-3-1993 cho ông Nguyễn Hồng  H đứng tên chủ sử dụng đất.

1.3. Không chấp nhận yêu cầu phạt cọc 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng  giữa chị L và ông H.

Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu tranh chấp “Hợp đồng chuyển  nhượng quyền sử dụng đất” giữa chị Lê Thị Kim L và ông Nguyễn Hồng H.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi chậm trả, chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 05-3-2021, ông H và bà Gái E có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp  phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận nội dung khởi kiện của  nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng  cáo, các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Trước khi  đặt cọc, ông H và bà Gái E đã gửi bản phô-tô giấy chứng nhận quyền sử dụng  đất cho ông M cha của chị L kiểm tra, có anh H làm chứng nguyên đơn cho rằng ông H, bà Gái E không cung cấp thông tin cho chị L trước khi đặt cọc là không phù hợp. Trên cơ sơ đó, hai bên đã lập giấy đặt cọc đúng với diện tích được ghi  trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này. Nay ông H và bà Gái E đã biết  diện tích đất giảm nên đề nghị trả lại cho chị L 200.000.000 đồng tiền đặt cọc  nếu chị L đồng ý thỏa thuận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu quan điểm về  việc giải quyết vụ án:

– Về tố tụng: Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố  tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý đến khi giải quyết vụ án. Các đương sự chấp  hành đầy đủ các quy định pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng.

– Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của  Nguyễn Hồng H, Trần Thị Gái E. Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố  tụng dân sự; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: 

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem  xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ đối với yêu cầu tranh chấp  “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa chị Lê Thị Kim L và ông  Nguyễn Hồng H là đúng quy định pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Hồng H và bà Nguyễn Thị Gái E thấy  rằng:

2.1. “Giấy nhận cọc” ngày 28-8-2020, được chị L và ông H lập để giao  kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 110 m2theo giấy  chứng nhận quyền sử dụng đất, thuộc thửa số 287, tờ bản đồ số 12 (thửa mới số  211, tờ bản đồ số 29); tọa lạc tại khu phố N, phường NT, thành phố T, tỉnh Tây  Ninh. Số tiền chị L đặt cọc để nhận chuyển nhượng phần đất này là 400.000.000  đồng. Qua đo đạc thực tế, xác định diện tích đất sau khi trừ lộ giới là 95,8 m2.

Tại khoản 2 Điều 49 của Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Trường hợp  quy hoạch sử dụng đất đã được công bố mà chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng  năm cấp huyện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng và được thực hiện  các quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật”.

Tại Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013 quy định “Người sử dụng đất  được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,  thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định pháp  luật”.

Do đó, mặc dù thửa đất số 287, tờ bản đồ số 12 (thửa mới 211, tờ bản đồ  số 29) có một phần thuộc diện tích quy hoạch nhưng hiện nay Ủy ban nhân dân  thành phố T chưa có chủ trương thu hồi năm 2020, năm 2021 nên chủ sử dụng  đất được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Đất đai  (Biên bản xác minh ngày 06-01-2021, bút lục số 71, 72).

Việc chị L cho rằng đất bị quy hoạch, không đủ diện tích như đã cam kết  chuyển nhượng nên không tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng là vi phạm  thỏa thuận của hợp đồng đặt cọc đã được ký kết.

Tuy nhiên, khi giao kết việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông H đã  không cung cấp đầy đủ thông tin về diện tích đất chuyển nhượng cho chị L biết  là vi phạm quy định tại khoản 9 Điều 12 của Luật Đất đai.

2.2. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định cả chị L và ông H đều có lỗi dẫn  đến hợp đồng đặt cọc theo “Giấy nhận cọc” ngày 28-8-2020 không thực hiện  được là có căn cứ; đồng thời, buộc ông H, bà Gái E phải trả cho chị L 400.000.000 đồng tiền cọc, không chấp nhận yêu cầu phạt cọc 400.000.000  đồng là đúng theo Điều 328 của Bộ luật Dân sự.

2.3. Do hợp đồng đặt cọc không thực hiện được nên Tòa án cấp sơ thẩm  buộc ông M là người đang giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên phải  trả lại cho ông H là phù hợp.

Từ những phân tích nêu trên, không cơ sở để chấp nhận kháng cáo của  ông H và bà Gái E; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về chi phí tố tụng:

Tiền chi phí tố tụng tổng cộng 5.761.000 đồng. Hợp đồng đặt cọc không  thực hiện được do lỗi cả hai bên nên ông H, chị L mỗi người phải chịu ½ là  2.880.500 đồng. Chị L đã nộp 5.761.000 đồng nên ông H có nghĩa vụ nộp trả lại  cho chị L 2.880.500 đồng.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông H và bà Gái E mỗi người phải chịu 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm theo khoản  1 Điều 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban  Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH: 

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Hồng H và bà Trần Thị Gái  E; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2021/DS-ST ngày 22 tháng 02  năm 2021, của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tây Ninh.

Căn cứ Điều 328 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 9 Điều 12, khoản 2  Điều 49; Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 26, 29 của Nghị quyết số:  326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án  phí và lệ phí Tòa án.:

Tuyên xử:

1.Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Kim L đối với  ông Nguyễn Hồng H

1.1. Tuyên bố “Giấy nhận cọc” ngày 28-8-2020 vô hiệu. Buộc ông  Nguyễn Hồng H, Trần Thị Gái E có nghĩa vụ trả cho chị Lê Thị Kim L số tiền  400.000.000 ( bốn trăm triệu) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho  đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của  số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

1.2. Buộc ông Lê Hoàng M có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Hồng H, bà  Trần Thị Gái E 01 (một) bản chính Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số:  03116QSDĐ/450611 ngày 13-11-1997, do Ủy ban nhân dân huyện H (nay thị xã  H) cấp ngày 29-3-1993 cho ông H đứng tên chủ sử dụng đất.

1.3. Không chấp nhận yêu cầu phạt cọc 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng  giữa chị L và ông H, bà E.

  1. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu tranh chấp “Hợp đồng chuyển  nhượng quyền sử dụng đất” giữa chị Lê Thị Kim L và ông Nguyễn Hồng H, bà  Trần Thị Gái E.
  2. Về chi phí tố tụng: Chị Lê Thị Kim L và ông Nguyễn Hồng H mỗi  người phải chịu 2.880.500 (hai triệu, tám trăm tám mươi nghìn, năm trăm) đồng.  Ghi nhận chị L đã nộp xong.

Ông H, bà E có nghĩa vụ nộp trả cho chị L 2.880.500 (hai triệu tám trăm  tám mươi nghìn, năm trăm) đồng.

  1. Về án phí:

+ Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Kim L phải chịu 20.000.000 đồng  tiền án phí dân sự sơ thẩm; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ  thẩm đã nộp là 18.300.000 đồng theo 02 (hai) Biên lai thu số 0000602 ngày 06- 10- 2020 và số: 0000703 ngày 19-10-2020, của Chi cục Thi hành án dân sự  thành phố T, tỉnh Tây Ninh; chị L còn phải nộp là 1.700.000 đồng tiền án phí  dân sự sơ thẩm.

Ông Nguyễn Hồng H và bà Trần Thị Gái E phải chịu 20.000.000 đồng  tiền án phí dân sự sơ thẩm.

+ Án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Nguyễn Hồng H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp là 300.000  đồng theo Biên lai thu số 0001280 ngày 16 tháng 3 năm 2021, của Chi cục Thi  hành án dân sự thành phố T, tỉnh Tây Ninh; ông H đã nộp đủ án phí dân sự phúc  thẩm.

Bà Trần Thị Gái E phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng,  nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp là 300.000  đồng theo Biên lai thu số 0001281 ngày 16 tháng 3 năm 2021, của Chi cục Thi  hành án dân sự thành phố T, tỉnh Tây Ninh; bà Gái E đã nộp đủ án phí dân sự  phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Ðiều 2 của Luật Thi  hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự  có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành  án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật  Thi hành án; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Ðiều 30 của  Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. \

                                                                                            HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN

                                                                                                                   – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

 

                                                                                                                            Lâm Văn Be

Hy vọng những thông tin chúng tôi cung cấp sẽ là nguồn tin tham khảo hữu ích với bạn. Chúc bạn thành công !

Trên đây là bản án về vấn đề TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC TUYÊN GIẤY NHẬN CỌC VÔ HIỆU

Trường hợp bản án về vấn đề TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC TUYÊN GIẤY NHẬN CỌC VÔ HIỆU có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý vị.

Chuyên viên: Hoài Linh

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi qua thông tin sau:

CÔNG TY LUẬT TNHH CỘNG ĐỒNG VẠN TÍN 

Luật sư PHẠM THỊ NHÀN                              ĐT:  0968.605.706.hoặc 0909257165

+  https://luatsunhadathcm.com/   (Website chuyên đất đai)

+   https://luatsulyhon.com.vn/ (Website chuyên ly hôn)

+ youtube: https://www.youtube.com/channel/UCRVhgDnAXEWUVDum80drWTQ

+Fanpage: https://www.facebook.com/LU%E1%BA%ACT-S%C6%AF-NH%C3%80-%C4%90%E1%BA%A4T-1057002254479124

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0968.605.706